Tắt Quảng Cáo [X]

Đức Cha Jean Cassaigne: “Trái Tim Tôi Là Của Người Việt Nam” – Tìm hiểu

10:56 17/07/2022

Ngài là ai mà khi nhắc đến tên Ngài dân sở tại đều tỏ lòng vô cùng tôn kính đến vậy?

 

Xin giới thiệu đôi nét về Ngài:

Đức Cha Jean Cassaigne tên đầy đủ là Jean Pierre Marie Cassaigne, tên tiếng Việt là “Sanh”, sinh ngày 30.01.1895 tại Grenade-sur-Adour (Pháp) trong một gia đình tiểu thương buôn rượu.

Thời thiếu niên do bản tính quá hiếu động nên cậu bé Cassaigne được người cha gởi vào nhà dòng Lasan nổi tiếng là kỷ luật nghiêm khắc như trường Providence ở Huế, trường Thánh Tâm ở Quảng Trị để rèn luyện.

Chú bé quá nghịch đến nổi nhà trường nhiều lần gởi thư than phiền đến gia đình, nặng nề hơn nữa là nhà trường tỏ ý vui lòng muốn nếu cậu học trò này được gia đình nhận về!

Thời gian ở tại trường Lasan cơ duyên đến với cậu khi tìm thấy cuốn sách: “Những cuộc hành trình truyền giáo” của Giám mục Đắc Lộ và “Hạnh Các Vị Tử Đạo Tiên Khởi Việt Nam” và cậu đã ngấu nghiến đọc, tưởng tượng một ngày mình sẽ phiêu lưu tiếp nối bước chân của nhà truyền giáo đến xứ sở xa xôi có tên là An Nam. Cậu tự nhủ sẽ trở thành linh mục thay vì nối nghiệp thương nhân của cha.

– Năm 1914, chiến tranh thế giới lần 1 xảy ra, Cassaigne nhập ngũ chiến đấu chống Phát xít Đức xâm lược.

– Năm 1918 cuộc chiến kết thúc, Cassaigne giải ngũ về với gia đình với tấm huy chương Anh Dũng Bội tinh.

– Năm 1920 chàng thanh niên con độc nhất của gia đình xin phép cha mẹ vào tu tại chủng viện Thừa sai Hải ngoại Paris (M.E.P).

– Năm 1925 thụ phong Linh Mục.

– Ngày 05.05.1926 Linh Mục Cassaigne cặp cảng Việt Nam, được đưa về giáo xứ Cái Mơn tỉnh Tiền Giang học tiếng Việt và chuẩn bị cho sứ mệnh truyền giáo, tiếp nối sứ mệnh của cố Giám mục Đắc Lộ.

– Ngày 24.01.1927 ngài nhận chức Cha sở Di Linh, Lâm Đồng. Từ vùng đất đồi núi hiểm trở này Ngài đã khai hoang một vùng đạo Kala, đưa đức tin Kito đến với người Kinh và dân tộc thiểu số. Việc làm nhân đạo nhất là Ngài đã LẬP NÊN TRẠI PHONG để đón nhận những bệnh nhân mắc bệnh cùi khốn khổ, bị ruồng bỏ về chăm sóc, chữa trị.

Vào năm 1941 Ngài được bổ nhiệm làm Giám mục Đại diện Tông Toà Giáo phận Sài Gòn.

– Tháng 06,1941 Ngài được tấn phong Giám mục tại Vương Cung Thánh đường Đức Bà Sài Gòn, với khẩu hiệu “Caritas et Amor” (BÁC ÁI VÀ TÌNH YÊU).

Lẽ thường khi được thăng chức ai cũng mừng vui nhưng với Ngài là điều không mong chờ vì phải rời xa giáo dân người Thượng nghèo khổ và người bệnh cùi hủi cần sự quan tâm của ngài!

Như là định mệnh, vào tháng 09, 1955 khi phát hiện mình đã bị nhiễm bịnh phong, Ngài xin từ nhiệm chức vụ Giám mục Sài Gòn và quay trở lại trại phong Di Linh để dành trọn thời gian phục vụ bệnh nhân.

Trong thư từ chức gởi cha bề trên Hội Thừa sai Paris, Ngài viết: “Tôi xin cha cho phép tôi nộp đơn từ chức sang Tòa Thánh và rút lui về Trại Phong Di Linh, bên cạnh những con cái mà tôi yêu thương nhất và Chúa quyền uy, với lòng nhân ái vô biên, ĐÃ CHO TÔI ĐƯỢC NÊN GIỐNG NHƯ HỌ.”

Và cứ thế hàng ngày Ngài chăm sóc cho người bệnh cho đến gần 20 năm sau già yếu và mắc nhiều bệnh: bị té gãy xương, lao phổi, sốt rét, bịnh phong.

Ngài qua đời tại Di Linh vào ngày 31/10/1973 kết thúc 78 NĂM TẠI THẾ PHỤNG SỰ cho đức tin, giúp đỡ tha nhân không quản ngại đến thân mình.

Lúc bệnh nặng, Giáo hội muốn đưa Ngài về Pháp chữa trị nhưng Ngài đã từ chối:

– “Tôi là người Pháp nhưng TRÁI TIM TÔI LÀ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM. Tôi đã sống nơi đây và cũng muốn được chết nơi đây. Việt Nam là quê hương của tôi”.

Ngài được an táng cạnh nhà nguyện, gần tháp chuông. Ngôi mộ đơn sơ bên trên phủ cỏ có tấm bia ghi tên tuổi và tiểu sử người quá cố.

Lễ tang của Ngài thời đó có rất đông người đến viếng. Ngoài các linh mục, giáo dân, còn có sự tham dự của viên chức chính quyền SàiGòn, các vị chức sắc của tôn giáo khác và người ngoại đạo ngưỡng mộ cha nữa.

* Đức Cha Jean Cassaigne là một trong số 25 gương chứng nhân truyền giáo từ các quốc gia vùng miền trên thế giới dược Vatican đề nghị như LÀ MẪU GƯƠNG VỀ ĐỨC TIN..

Những công trình tiêu biểu đầy ý nghĩa mà Đức cha Cassaigne đã làm cho người dân tộc ở Di Linh là:

– Truyền giảng giáo lý

– Mở trường học

– Trạm xá

– Sân banh

– Đường sá

– Và đem ánh sáng văn minh đến với vùng sơn cước này.

Ngài đã mở bệnh xá và dựng những căn nhà gỗ để nhận người bị bệnh phong đang sống vất vưởng đói khát trong rừng về sống. Không phải là bác sĩ, nhưng Ngài đã tự học để hành nghề y

– Chữa bệnh

– Đở đẻ

– và phát thuốc

Vì thời đó tìm đâu ra y – bác sĩ đến xứ khỉ ho gà gáy này.

Sau 14 năm quản giáo xứ Di Linh (từ 1927 đến 1941), Đức Cha Jean Cassaigne đã dựng một nhà thờ với 795 giáo dân gồm:

– 15 người Pháp

– 134 người Kinh

– 218 người Thượng

– 350 giáo dân tại Công Hinh

– 78 người Thượng tại làng cùi

– và chưa kể 133 tân tòng.

Ngày nay nhiều nhà thờ trên vùng đất Di Linh được xây dựng kiên cố, họ đạo đông vui, nhà cửa người dân khang trang, đường sá liên thông, phố xá tấp nập, đời sống toàn vùng sung túc.

– 1929 cha Cassaigne đã xuất bản Từ điển Pháp – Kơho – Việt

đây là cuốn từ điển đầu tiên hình thành chữ viết cho ngôn ngữ Kơho, một công trình rất đáng trân trọng vì góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc và phát triển cho người dân tộc Kơho.

– Năm 1937 cha Cassaigne xuất bản cuốn: Phong tục tập quán người dân tộc Kơho, đây cũng là một công trình đầu tiên nghiên cứu về bộ tộc Kơho của VIệt Nam.

– Năm 1938 cha cho xuất bản tập Giáo lý cho người Kơho.

Phải kể cùng mọi người vài mẫu chuyện về vị Cố đạo, để hiểu được tấm lòng cao cả hy sinh của Ngài:

1- Một lần có vị quan Thanh tra ngành Giáo dục thuộc địa Pháp đi săn tại KaLa, Di Linh tình cờ trông thấy Ngài đang băng bó vết thương rụng lóng tay cho người bịnh phong. Ông ta truy vấn Ngài về tư cách điều trị (không phải là bác sĩ, không có giấy phép mở trại y tế…). Ngài bình tĩnh trả lời mình đang nhận sứ mệnh nhân đạo từ Chúa và với sứ mệnh này thì bất kể lúc nào hể có sự cầu xin thì Chúa sẵn lòng đáp ứng qua môn đồ của ngài.

Đức Giám Mục vừa là Chánh xứ, trưởng trạm, vừa là y tá, y công, kể cả hộ sinh nữa! Khi đó trạm đã có 129 bệnh nhân, Ngài phải ngửa tay xin các nhà từ tâm trợ lực mới kéo dài được cuộc sống của họ. Một tháng sau đó, Linh Mục Cassaigne nhận được một thùng thuốc của ông Tổng Thanh tra này. Và sau này Trạm phong được chính quyền thừa nhận và tài trợ cho kinh phí hoạt động.

2- Lúc đang hành lễ tại Vương Cung Thánh đường Đức Bà Sài Gòn, ông thấy cổ tay có những nốt đỏ, chọc kim vào không thấy cảm giác đau, biết mình bị nhiễm vi trùng Hansen (Phong). Ngài cười: “Đây là quà lễ Quan thầy của tôi”.

Đồng thời trả lời với những người sửng sốt lo lắng xung quanh:

– “Không phải bị MÀ LÀ ĐƯỢC vì được về Di Linh với đoàn con! Có đau mới hiểu người đau và biết thương họ nhiều hơn.”

Cha Cassaigne qua đời ngày 31-10-1973. Ngài được an táng cạnh nhà thờ, gần tháp chuông, đúng như ý nguyện.

Câu nói của Ngài được nhiều môn đồ truyền tụng là:

– “Dù người ta sẽ thay y phục và chỗ ở của tôi, song chẳng ai thay được con người chất phác nơi tôi”.

– Khẩu hiệu “Bác Ái và Yêu Thương” do ngài chọn đã nói lên điều đó.

Suốt 47 năm dài (1926–1973), Ngài đã thủy chung với lời nguyện ban đầu, cùng sống giữa các con chiên và đã dâng hiến tất cả cho người cùng khổ.

VIỆT NAM LÀ QUÊ HƯƠNG THỨ HAI CỦA NGÀI.

Di Linh là mái nhà lúc sống và nấm mồ khi lìa đời của Ngài.

Đơn giản nhưng cao quý làm sao!

Giáo xứ của Cố Giám mục Cassaigne ban đầu chỉ có 5 giáo dân gồm 3 người Việt, một “anh nuôi” và một người giúp việc.

Câu chuyện về tấm lòng của Đức cha Jean Cassaigne lan truyền đến tận Paris, nước Pháp, quê hương của cha.

– Năm 1939, Ngài được nhận: HUY CHƯƠNG BẠC của HÀN LÂM VIỆN Y KHOA PARIS GỞI TẶNG. Dù chưa bao giờ đặt chân vào một trường y nào.

Kể từ năm 1955, Đức Cha Jean Cassaigne lại tiếp tục phục vụ bệnh nhân mặc dù bản thân còn mang thêm bệnh sốt rét rừng, ngã gãy xương đau dạ dày , lao xương, lao phổi…

Ba ước nguyện của Đức Cha Jean Cassaigne là:

1. Tôi ao ước được đau khổ vì Chúa và vì người anh em;

2. Tôi ao ước được đau khổ như vậy lâu dài, suốt đời và được vững lòng chịu đựng;

3. Tôi ao ước được an nghỉ giữa các con cái phong của tôi.

Trước nấm mồ của Người chăn chiên vĩ đại, tôi thấy mình trở nên nhỏ bé vô cùng và nếu gom tất cả những việc thiện đã làm cũng chỉ là hạt cát trong sa mạc thiện lương của vị Giám Mục này.

Tôi đã từng ngưỡng mộ lòng nhân ái bao dung của ông Cha Quảng Trị Etcharren, nay sự ngưỡng mộ đó nhân lên bội phần trước ông Cha Di Linh Cassaigne. Các vị Thánh này mãi mãi là tấm gương sáng dẫn đường cho những ai có tấm lòng nhân ái nghĩ đến tha nhân.

Một số hình ảnh về Ngài:





Nguồn: Fb Mai-Agnetha Pham

 

 

Bạn có thể quan tâm

lên đầu trang