Cuốn hút đầu tiên là tình yêu đôi lứa. Tôi đã say đắm trong các cuộc tình đến nỗi sao lãng cả việc học hành. Sau những lãng mạn lúc đầu, các cuộc tình đó đã đem lại cho tôi nhiều đau khổ.
Cuốn hút thứ hai là danh vọng. Tôi đã cố ngoi lên để tìm một chỗ đứng trong xã hội. Tôi cũng đã lên một chỗ tương đối thật đấy, nhưng tôi đã không tìm được hạnh phúc tôi mong tưởng, có khi chính vì cái hư danh ấy đôi lúc lại còn làm tôi đau đớn tận sâu thẳm trái tim.
Năm 1975, tôi đã cùng hàng triệu người khác đi cải tạo. Tôi đã khốn đốn trong các trại giam tại Bắc Việt. Một trong những khốn khổ mà tôi phải chịu là chứng mất ngủ. Đây là hậu qủa của những bất toàn về cả tâm sinh lý cộng thêm sự nghiền xay của hoàn cảnh.
Từng đêm dài tôi đã thức trắng, sức khoẻ dần dần yếu đi, không có thuốc để chữa chạy. Tình trạng này kéo dài cả năm trời, từ đầu năm 1980 đến 1981. Một buổi tối kia đa số anh em trong phòng đã say ngủ, tôi nghe hai anh nói truyện với nhau, chỉ cách chỗ tôi nằm chừng hai thước. Tôi nghe anh Nguyễn Văn Lai nói: "Khi nào tôi khó ngủ tôi chỉ cầu nguyện bằng cách đọc vài kinh Kính Mừng là ngủ được ngay."
Ai bị bệnh nghe nói thuốc nào hay cũng muốn thử.
Mặc dù lúc ấy chưa có Đạo nhưng bài kinh Kính Mừng tôi đã biết.
Năm 17 tuổi tôi có một ngưòi bạn gái, lúc đó sự liên lạc giữa chúng tôi là những trang thư và những buổi hẹn hò trong sân nhà thờ. Gặp chỉ để nói với nhau đôi câu. Một hôm bàn tay rất đẹp trinh trắng của Uyên đã trao tôi trang giấy có ghi bài kinh Kính Mừng với nét chữ thật nắn nót. Uyên bảo tôi học thuộc đi, và tôi đã thuộc.
Cuối năm đó tôi thi rớt. Không những gia đình tôi không cho tôi đi chơi tự do nữa mà chính tôi cũng tự nhủ phải quyết chí trở lại việc học hành. Lúc tôi gặp Uyên là tôi được ở riêng, sau khi thi rớt tôi dọn về ở với gia đình cộng thêm sự ngăn cản của gia đình Uyên, chúng tôi đã không gặp nhau nữa. Cho đến bây giờ tôi cũng không biết Uyên ở đâu.
Uyên đã xa nhưng Kinh Kính Mừng ở lại
Nghe anh Lai nói xong, tôi nhớ tới Uyên, tôi nhẩm lại Kinh Kính Mừng. Và đêm đó tôi ngủ một giấc say cho đến sáng.
Tôi mừng lắm, liên tiếp cả tuần sau tôi ngủ được. Tôi cảm thấy đã được chữa cả bệnh mất ngủ mà còn được mạnh về tâm lý nữa. Tôi đã vui và hy vọng trở lại. Hình như u ám không còn phủ lên tôi như trước.
Sau đó tôi đã ngủ được khoảng một tuần lễ liên tiếp. Một buổi sáng thức dậy, nhìn qua cửa sổ phòng giam thấy nắng xuân vàng ấm chiếu trên luống rau cải xanh các bạn trồng ngoài sân, tự nhiên tôi nói với bố Vũ Công Định nằm bên cạnh:
- Bố Định ơi chắc là con theo Đạo Chúa quá!
Bố Định là người ít nói. Bố chỉ cười. Bố không có đạo, tôi nhớ có hỏi bố là bố có biết ai là con cái Chúa không để con hỏi thăm, bố Định trả lời là có cụ Mân đấy. Tôi đến hỏi cụ Mân, nguyên Thượng Nghị Sỹ, lúc đó ở cùng phòng 1 trại Hà Tây với tôi. Sau đó anh em con cái Chúa đến hỏi tôi nhiệt tình lắm.
Món qùa đầu tiên sau khi tôi cầu cứu Đức Mẹ là bệnh mất ngủ đã không còn hành hạ tôi nữa. Sau đó anh em đạo Thiên Chúa đã cho tôi tình thân ái. Tôi đã được anh em cho tôi tình thương yêu mà trước đó tôi không có. Các anh đã hướng dẫn Đạo cho tôi để chờ ngày rửa tội.
Rồi đến gần ngày ấn định, tôi đã xin ngưng lại. Tôi cảm thấy chưa sẵn sàng về tâm lý, hơn nữa tôi sợ. Tôi sợ nếu cán bộ biết được sẽ ra sao đây?
Trong suốt một tháng sau đó tôi thao thức rất nhiều và tôi chắc rằng anh em cũng cầu nguyện nhiều.
Tôi ngưng lại việc rửa tội, ít tiếp xúc với anh em nhưng bắt đầu sáng tác.
Bài đầu tiên là bài: Cha là Ngôi Trời có thật, sau đó là các bài: Mẹ ơi cứu con ra khỏi nơi này, Hãy nhìn lên trời cao
Sau hơn một tháng suy gẫm tôi đã vượt qua được trở ngại tâm lý: Biết bao nhiêu người tài giỏi cuả nhân loại đã qùy gối trước Chúa Kitô huống chi tôi?
Về nỗi sợ hãi CS: Tôi còn gì nữa mà tiếc nuối. Nếu có phải vì theo Chúa mà bị kỷ luật thì phước hạnh biết bao, như khi xưa Chúa đã giảng trên núi trong Tám Mối Phúc Thật. Vậy thì nếu CS biết tôi theo đạo mà có cùm gông, thậm chí giam tôi mãi tôi cũng vui lòng cam chịu. Và từ đó tôi đã quyết tâm theo Chúa. Tôi đã xin anh em định lại ngày rửa tội là ngày 21 tháng 3 năm 1981. Trước ngày rửa tội tôi đã hồi hộp như cô dâu sắp tới ngày cưới. Anh em thì thầm bàn tính sắp đặt.
Một buổi chiều kia, lúc nói truyện với một người bạn tôi đã ước ao:
- Nếu như khi dội nước xong mà đèn bật sáng thì hay biết mấy!
Ở trại Hà Tây có điện, cứ chập tối thì đèn được cán bộ trực trại bật sáng lên, giờ giấc lúc sớm lúc muộn thất thường.
Buổi tối hôm đã định, khi trời còn sáng đã có tiếng kẻng nhập buồng. Khi nhập buồng xong, cán bộ khoá cửa thì trời đã nhá nhem tối. Anh em chúng tôi hẹn nhau trước, lặng lẽ chuẩn bị cho lễ rửa tội. Hai ngọn đèn dầu được thắp lên ở góc trong cùng- tầng trên- chỗ nằm liền nhau của các anh Nguyễn Vạn Hùng (hiện cộng tác với báo Thời Luận) và anh Nguyễn Văn Độ (đã mất khi sang tới Hoa Kỳ)
Buổi lễ diễn ra nghiêm trang. Hình như cả phòng đều biết, nên đã giữ yên lặng khác thường . Khi bác Nguyễn Thành Tiên vừa dội nước vừa đọc: "Tôi rửa anh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Chừng một hai giây sau thì đèn chớp hai lần rồi bật sáng hẳn! Sự việc đã xảy ra đúng như tôi ước ao.
Chúa đã tặng tôi món qùa đầu tiên để nâng đỡ tinh thần yếu đuối của tôi. Khi tôi kể lại ước ao nhỏ bé đã được Chúa nhậm lời thì tất cả anh em hiện diện đều ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa. Ngay sau đó chúng tôi đã chia nhau mỗi người một chén chè nhỏ mà anh Nguyễn Vạn Hùng đã chuẩn bị sẵn, tôi đã hát ngay cho anh em nghe 4 bài Thánh Ca tôi đã làm những ngày trước đó.
Sau khi được rửa tội tôi đã chìm đắm trong một hạnh phúc tuyệt vời không thể diễn tả được. Tôi chưa bao giờ có được niềm hân hoan đó. Trong hoàn cảnh khốn khổ, thiếu thốn nhất tôi đã được một cảm giác thật lạ lùng, khó thể nào hiểu nổi nếu không có đức tin. Tâm hồn tôi như được nâng cao lên. Sự đau khổ biến mất mà chỉ còn niềm vui... niềm vui... Chừng 7 ngày sau tôi trở lại bình thường.
Việc rửa tội và hát lớn lên như vậy chắc chắn là cán bộ biết. Tôi đã chấp nhận nhưng vẫn hồi hộp chờ chuyện gì sẽ xẩy ra. Tôi sẽ trả lời ra sao để không mang tội chối Chúa và cũng không để cớ cho bị hành tội.
Đầu tiên, sau ít ngày là cán bộ quản giáo gọi gặp riêng, không hỏi thẳng vấn đề, chỉ nói chuyện thông thường rồi cho về.
Sau đó tôi thấy ông ta ngồi trong phòng hai ngày, chắc là để viết báo cáo.
Chừng một tuần lễ sau cán bộ an ninh gọi tôi gặp tại văn phòng. Tôi được đưa vào một căn phòng tối tăm.
Sau một lúc yên lặng cán bộ an ninh trại đặt câu hỏi:
- Anh được KẾT NẠP vào đạo Công Giáo phải không?
Tôi trả lời:
- Đạo Công Giáo không phải là một đảng phái nên không có chuyện kết nạp. Chỉ có việc rửa tội thôi.
- Ai rửa tôi cho anh?
- Trong trại này không có ai là Linh Mục. Chỉ có Linh Mục mới rửa tội được thôi.
- Thế anh có tin Đạo Chúa không?
- Đó là chân lý tôi đang theo.
Cán bộ chỉ muốn biết ai âm mưu và lãnh đạo anh em Công giáo trong trại, khi thấy tôi nói không có linh mục, và không có bằng chứng cụ thể nên sau vài câu đe dọa đã cho tôi về.
Thoát khỏi hình phạt gông cùm tôi tạ ơn Thiên Chúa, và nhất là tôi đã thoát khỏi tội chối Chúa, tôi hạnh phúc vô cùng.
Từ lúc đó tôi sáng tác nhiều bài thánh ca, cũng như những bài nhân bản kêu gọi tình người. Tôi đã cố gắng học thuộc cũng như nhờ anh em khác học thuộc để hy vọng một ngày nào được thả ra sẽ đem phổ biến rộng rãi truyền bá đức tin. Một khi đã sáng tác thì không thể giữ kín trong lòng được, nên tôi đã hát cho một số các bạn nghe và chắc chắn cũng bị theo dõi. Tôi đã cố gắng không để lại một dấu vết gì để có thể làm bằng chứng cho CS buộc tội. Tất cả những bài hát đã được giữ trong tim óc chúng tôi.
Một hôm cán bộ Tân là cán bộ quản giáo đội văn nghệ nơi tôi ở ghé tai tôi nói nhỏ:
- Anh sáng tác thánh ca phải không? Coi chừng đem dấu ngay đi, cán bộ an ninh biết là cùm đấy!
Việc cán bộ Tân không những không bắt tội tôi mà còn chỉ đường cho tôi chạy, đó cũng là nhờ ơn Chúa. Xin cảm tạ Chúa và xin Chúa gia ân cho cán bộ tốt bụng này.
Kể từ ngày có Chúa tôi đã sống hạnh phúc trong ân nghĩa Chúa. Tình yêu của Chúa luôn hiện diện quanh tôi qua những cử chỉ thân ái và tình bằng hữu thân thiết của anh em con cái Chúa. Chúa đã làm cho tôi nhiều điều kỳ diệu, đáng lẽ tôi phải chết nhưng đã được cứu sống. Trước hết Chúa đã cho tôi sống lại trong linh hồn, từ niềm tuyệt vọng Chúa đã cho tôi hy vọng, cho tôi biết thống hối tội lỗi của mình, cho tôi biết khiêm nhường, biết yêu thương anh em hơn, biết vui lòng chịu đựng những khó khăn trong cuộc sống, biết vác thánh giá hàng ngày theo chân Chúa, chờ ngày hưởng phúc trên trời.
Năm 1981 việc anh em cựu tù cải tạo được đi Mỹ là hoang tưởng, nay tôi cũng là một người trong hàng trăm ngàn anh em bị đầy đọa khốn khổ thời gian ấy, mà nếu như toan tính của CS vô thần, thì tất cả chúng tôi đã phải bị giam cho đến mãn đời tại rừng núi sâu Sơn La, Thanh Hóa, nhưng nay lại được lập lại cuộc sống trên đất Mỹ tự do này. Chắc chắc chỉ có bàn tay của Chúa mới làm nên điều kỳ diệu ấy.
Rất nhiều anh em cựu tù cải tạo sang Mỹ mấy năm đã ổn định, công việc làm đã vững chắc, con cái đã tốt nghiệp đại học. Riêng tôi nhờ ơn Chúa tôi đã là nguồn cảm hứng dạt dào để đem khả năng Chúa cho viết được các ca khúc ngợi khen, cảm tạ Chúa. Từ năm 1993 tôi đã nỗ lực soạn được toàn bộ Đáp ca cho các ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng và nay đã in thành sách được đặt tên là: "Con nâng hồn lên tới Chúa".
Tôi đã được Chúa cứu vớt, tôi xin nguyện trọn đời theo Chúa.
【Ns. Vũ Thành An】
--- -- -- - --
Phó tế Gioan Maria Têrêsa Vũ Thành An kể chuyện tình...không tên
Nhắc đến nhạc sĩ Vũ Thành An, người yêu nhạc lại liên tưởng đến những tình khúc không tên bất hủ, đi vào lòng nhiều thế hệ nối tiếp nhau hơn nửa thế kỷ. Từ năm 2002 giới Công giáo còn được biết đến ông trong cương vị một Phó tế vĩnh viễn.
Trong suốt buổi giao lưu với khán giả tại Đường sách TPHCM tối ngày 3.8.2017, nhạc sĩ Vũ Thành An nhiều lần bày tỏ tâm tình tạ ơn, như trong một bài hát ông từng viết: “Cám ơn Trời, ơn đời cho tôi còn sống đây. Cám ơn Trời, ơn đời cho tôi còn phút này…”. Dịp về nước lần này đặc biệt hơn, bởi ông có cơ hội được trải lòng cùng người hâm mộ qua tập sách “Chuyện tình không tên” do Phương Nam Book và NXB Văn hóa - Văn nghệ TPHCM ấn hành.
Đằng sau những bài hát không tên
“Tại sao lại là những bài không tên?”, câu hỏi được nhiều người thắc mắc lâu nay đã được tác giả diễn giải rằng “Vì muốn giấu tên người tình!”. Có nhiều bài luôn liên quan đến một bóng hồng nhưng ông lại cảm thấy mình không bao giờ có thể kể cụ thể về những cô bạn gái đã đi qua cuộc đời. Đây là những điều rất riêng tư, đôi khi đem công bố không khéo lại là một sự xúc phạm. Thêm một lý do nữa, thời học Đại học Luật khoa Sài Gòn, một giáo sư của ông bảo: “Muốn thành công thì phải làm điều gì đó khác lạ!”. Thế nên khi sáng tác ở tuổi còn trẻ, chàng trai Vũ Thành An muốn gây sự chú ý bằng cách chọn đặt tên những bài hát theo kiểu này, và còn nghĩ nếu viết một loạt những bài “không tên” thì dễ thành công hơn khi chỉ phổ biến một vài bài.
Chia sẻ về “Tình khúc thứ nhất”, nhạc sĩ hồi tưởng lại những kỷ niệm của mối tình với cô xướng ngôn viên của chương trình sinh viên hằng tuần trên đài phát thanh Sài Gòn, cũng là cô sinh viên trường Luật khi ấy: “Lúc mới quen nhau, nhiều lần nàng nói tôi hãy viết một ca khúc để kỷ niệm mối tình của mình. Tôi cứ lần lữa hoài chưa viết, sau đó cũng cố gắng viết nhưng chưa thấy hay. Rồi một buổi chiều Xuân 1965, trên chuyến xe từ Vũng Tàu về Sài Gòn, một dòng âm thanh vang lên trong đầu: ‘Bài ca anh hứa cho em bấy lâu nay vẫn còn dang dở…’. Tôi đưa bài hát cho nhà thơ Nguyễn Đình Toàn xem. Khi đó anh Toàn cũng làm chung ở Đài phát thanh và anh nói muốn viết lời cho bài này. Thế là tình khúc thứ nhất ra đời (Tình vui theo gió mây trôi. Ý sầu mưa xuống đời. Lệ rơi lấp mấy tuổi tôi. Mấy tuổi xa người. Ngày thần tiên em bước lên ngôi…)”.
“Bài không tên số 5”, một trong số những ca khúc được rất nhiều người yêu thích và thuộc, tác giả sáng tác để dành tặng người bạn đời đầu tiên. Đó là lúc nhạc sĩ đã trải qua hai, ba mối tình với nhiều hụt hẫng, rồi được gặp cô gái mà mỗi khi ở bên cạnh, ông luôn cảm thấy bình yên nên nghĩ đến chuyện lập gia đình cùng cô. “Mỗi lần gặp mình, cô ấy có vẻ bối rối và run lắm, cho nên bài hát này mới mở đầu bằng câu ‘Quấn quýt vân vê tà áo, run run đôi môi mở chào’…”, ông nói trong dòng ký ức đang ùa về. Kỷ niệm đáng nhớ của bài “không tên số 5” là nhạc sĩ đã được trả bản quyền với giá 10 ngàn đồng. Số tiền này vào năm 1969 khá lớn và ông đã quyết định dành hết để may áo cưới cho vợ mình.
Trước năm 1975, nhạc sĩ Vũ Thành An chỉ viết đến “Bài không tên cuối cùng”, tức bài số 10 là hết. Nhưng sau này, ông tiếp tục làm thêm lời hai cho những tình khúc ấy và những bài không tên nữa lại ra đời (tính đến nay có khoảng 50 bài), cùng các bản tình ca khác. Giải thích tại sao lại viết lời tiếp nối cho những sáng tác trước đây, nhạc sĩ kể rằng trong một lúc thảng thốt, ông đã viết lên những ca từ ấy, sau đó hát đi hát lại, thấy sao mình lại có thể có những lời xót xa như thế, rồi ưu tư sợ ảnh hưởng đến cuộc sống riêng của người bạn gái xưa nên muốn nói lại như một lời xin lỗi. Tỷ như ở bài “không tên số 10”, tác giả từng viết: “Này em hỡi, con đường em đi đó, con đường em theo đó, sẽ đưa em sang đâu? Mưa bên chồng, có làm em khóc, có làm em nhớ, những khi mình mặn nồng”; sau này ông đã có những lời tiếp nối: “Này em hỡi, con đường em đi đó, con đường em theo đó, đúng đấy em ơi. Nếu chúng mình đã thành đôi lứa, chắc gì ta đã, thoát ra đời khổ đau”… Hay bài “không tên số 2” có đoạn: “Đời một người con gái, ước mơ đã nhiều, Trời cho không được mấy, đến khi lấy chồng, chỉ còn mối tình mang theo”. Sau gần 50 năm, trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống, Vũ Thành An đã hát tiếp trên cùng dòng âm thanh ấy: “Đời một người dưới thế, ước mơ đã nhiều, Trời cho không được mấy, đến khi lên Trời, chỉ còn khối tình mang theo”.
Ký tên lên tác phẩm "Chuyện tình không tên" dành cho độc giả hâm mộ
Phụng sự Chúa trong ân tình
Hình ảnh một ông già ở tuổi ngoài 70 với khuôn mặt hiền từ, đôn hậu, trên ngực áo luôn cài cây thánh giá, khác hẳn một Vũ Thành An với mái tóc lãng tử của thời trai trẻ. Cũng trái tim ấy, con người ấy nhưng qua thời gian, chàng nhạc sĩ giờ đây lại là một giáo sĩ.
Điều đặc biệt, thầy Phó tế Gioan Maria Têrêxa An không phải là người đạo gốc mà chỉ mới rửa tội theo đạo từ năm 1981. Nhưng như lời thầy kể ở bài “Kỷ vật là bài Kinh Kính Mừng” trong tập “Chuyện tình không tên” thì cái duyên với Công giáo đã có trước đó rất lâu. Năm 1960, chàng trai An đã quen một cô gái có đạo. Hồi đó, chưa hiểu thế nào là niềm tin Công giáo nhưng chàng rất ngưỡng mộ lòng sùng đạo của cô. Có những chiều Chúa nhật, hai người cùng hẹn nhau trước nhà thờ Đức Bà Sài Gòn sau khi tan lễ, chỉ để nói với nhau vài lời, rồi khi cô gái bước về, chàng trai vẫn còn ngẩn ngơ đứng trông theo. Và một lần, cô đã trao cho chàng mảnh giấy, trên đó viết bài kinh Kính Mừng với nét chữ thật nắn nót. Vì tôn trọng người bạn gái mà anh An khi ấy đã học thuộc kinh này theo lời dặn của cô. Dù sau đó không đến được với nhau nhưng lời kinh vẫn ở lại trong anh. Đến năm 1981, trong thời gian đi học tập cải tạo, một trong những căn bệnh nhạc sĩ Vũ Thành An mắc phải là chứng mất ngủ, khi nghe vài người bạn mách nhau rằng đọc kinh Kính Mừng là ngủ được, ông làm theo và thật hiệu nghiệm. Kinh Kính Mừng đã làm thay đổi cuộc đời người nhạc sĩ, từ tuyệt vọng thành hy vọng, bệnh tật thuyên giảm, sức khỏe hồi phục. Sau này, ông xác tín, chính những lời kinh đó đã dẫn dắt mình vào một niềm tin bền vững trong cuộc sống.
Bài hát “Đời đá vàng” được nhạc sĩ Vũ Thành An viết từ cuối năm 1974, khi mới ngoài 30 tuổi, với những suy tư: “Ô hay tại sao ta sống chốn này, quay cuồng mãi có gì vui?”. Rồi ngưng đến gần 20 năm sau mới viết tiếp, vào thời điểm ông đã định cư cùng vợ tại Hoa Kỳ. Trải qua một giai đoạn đau thương, nhạc sĩ lại cảm nghiệm: “Có một lần mất mát, mới thương người đơn độc. Có oằn mình đớn đau, mới hiểu được tình yêu!”. Ông chia sẻ thêm, để hoàn thành bài hát này, mình không chỉ cảm nhận được hết nỗi đau của một kiếp người mà còn hiểu thêm được trận đòn kinh khiếp mà Chúa Giêsu đã phải gánh chịu chỉ vì yêu thương loài người. Năm 2002, trước khi chịu chức Phó tế, nhạc sĩ tiếp tục viết: “Xuống tận cùng dưới đáy, mới thấy mênh mông rộng cõi trời. Hãy mở lòng chúng ta, đón nhận biển tình yêu. Có nghìn lần tha thứ, cũng chưa là từ ái. Hãy cảm tạ biết ơn, có được đời đá vàng”. Với thầy Gioan Maria Têrêxa giờ đây, qua nhiều chặng đường buồn vui, được sống trong ân nghĩa của Chúa, mới biết cảm tạ ngay cả những đau khổ, vì chính đau khổ đó đã giúp mình vươn lên.
Được dâng mình cho Chúa là ước vọng của nhạc sĩ Vũ Thành An từ khi gia nhập đạo. Không thể trở thành linh mục nhưng trong sứ mệnh phục vụ của người Phó tế vĩnh viễn, thầy đã tìm thấy ý nghĩa cuộc đời. Dù ngưng viết tình ca từ năm 1996 nhưng thầy Gioan Maria Têrêxa vẫn sử dụng “nén bạc” Chúa trao là khả năng âm nhạc để viết thánh ca và phổ nhạc các bài thánh vịnh.
Nhạc sĩ Phó tế Vũ Thành An hiện sống tại Hoa Kỳ, thuộc Tổng giáo phận Portland. Ngoài phụng sự Chúa bằng âm nhạc và chu toàn trách nhiệm của mình tại nhà thờ, thầy còn tích cực phát triển Quỹ từ thiện Têrêsa do chính mình sáng lập từ năm 2004, chuyên giúp người nghèo, người già neo đơn qua các việc cứu trợ và phát gạo. Quỹ Têrêsa cũng đã chính thức được phép hoạt động tại Việt Nam từ 2012.
Quý Tổ Chức, Cá Nhân muốn Mua lại tên miền CONGGIAO.VN vui lòng liên hệ qua email: admin@conggiao.vn