Tắt Quảng Cáo [X]

Tiểu sử Thánh Anê Lê Thị Thành

07:49 05/11/2023
hoc du

Thánh Anê Lê Thị Thành sinh năm 1781 tại làng Bái Điền (Bái Đền hay Gia Miếu), huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Song thân là người đạo gốc, gia đình khá giả nhưng không có con trai nối dõi tông đường nên thân phụ cưới thêm vợ thứ hai, khiến mẹ bà Thành phải mang hai cô con gái Thành (12 tuổi) và Thuộc (10 tuổi) ra đi lập nghiệp tại thôn Đông, xã Phúc Nhạc, tỉnh Ninh Bình.
Năm mười bảy tuổi, cô Thành kết hôn với anh Nguyễn Văn Nhất, sinh được hai cậu con trai và bốn cô con gái. Theo phong tục địa phương, người làng lấy tên cậu con trai đầu lòng để gọi song thân, vì thế mà bà Thành còn được gọi là bà Đê.

Hai ông bà quan tâm nuôi dưỡng và giáo dục đức tin cho con cái. Đặc biệt, bà Đê rất trọng những người dâng mình cho Chúa, cách riêng các thừa sai và linh mục bản quốc. Gia đình ông bà luôn sẵn sàng đón tiếp giáo sĩ đến tá túc trong thời bị bách hại.

Vào sáng ngày đại lễ Chúa Phục Sinh, 14/04/1841, tên Đễ, người theo giúp cha Thành, muốn lập công và ham tiền thưởng đã mật báo nơi trú ẩn các đạo trưởng tây nam với Tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Linh mục thừa sai Jean Paul Galy Carles – Lý được ông trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê, núp trong đường mương khô cạnh bụi tre, có rơm rạ che khuất. Nhưng lính đã nhìn thấy bóng người chạy trốn nên cố sức lục soát và cuối cùng thì bắt được cha. Bà Đê, chủ nhà, cũng bị bắt vì tội che giấu đạo trưởng trong nhà. Ông trùm Cơ, bà Đê và tám người khác bị đóng gông đưa về ngục Nam Định. Vì chiếc gông quá nặng, bà Đê nhiều lần gục ngã trên đường.

Tại công đường, tổng đốc Trịnh Quang Khanh khuyến dụ ngọt ngào, tra tấn nhục hình, đánh đòn đến tan nát thân mình, thả rắn độc vào hai ống quần… cũng không thể lung lạc niềm tin son sắt của bà Đê. Khi vào thăm mẹ, cô Nguyễn Thị Nụ khóc nức nở khi nhìn thấy tấm áo mẫu thân loang lổ vết máu, nhưng bà Đê âu yếm an ủi: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”.

Một lần viếng thăm khác, bà Đê nhắn nhủ: “Con hãy về chuyển lời mẹ đến với anh chị em con, nhớ coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối nguyện kinh, dâng lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá đến cùng. Không bao lâu nữa, mẹ con chúng ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”. Ngoài cực hình tra tấn, ăn uống kham khổ, bà Đê còn mắc chứng kiết lỵ. Mặc dù có nữ tu tận tình chăm sóc, sức lực bà Đê ngày càng yếu và đã an nghỉ trong Chúa vào đêm 12/07/1841 nơi chốn lao tù, dưới đời vua Thiệu Trị.

Theo quy định, binh lính đốt ngón chân của bà để xác nhận tử tội đã từ trần. Thi hài của bà được an táng tại pháp trường Năm Mẫu, và sáu tháng sau được giáo hữu cải táng về nhà thờ Phúc Nhạc.

Thánh nữ Anê Lê Thị Thành (Ðê) được nâng lên bậc chân phước ngày 02/05/1909 và được tôn phong hiển thánh ngày 19/06/1988.

WHĐ/Conggiao.vn
____________

Tham khảo bài viết khác:

Chúng ta biết bà mở mắt chào đời tại Thanh Hóa năm 1781. Từ nhỏ bà theo gia đình về Nam Định sinh sống. Nơi đó năm 17 tuổi, thiếu nữ Thành kết hôn với anh Nguyễn Văn Nhất. Từ đó, hai vợ chồng bà hạnh phúc trong đời sống lứa đôi. Bà sinh được hai con trai tên Đê và Trân, bốn gái: Thu, Năm, Nhiên, Nụ. Thế là từ đó người ta thường gọi theo tên người con đầu là bà Đê.

Dẫu nhiều khó khăn gian khổ, nhưng lúc nào bà cũng khuyên dạy các con trong đời sống nhân bản và đức tin. Bà tin rằng Thiên Chúa không bỏ những ai hằng cầu xin và tin tưởng Ngài. Bởi đó, bà luôn khuyến khích các con nhớ tham dự thánh lễ, kinh nguyện, xưng tội và tham gia đoàn thể trong giáo xứ. Đó là môi trường tốt để những người con của bà được lớn lên trong đường nhân đức. Là phụ nữ Công Giáo, bà chỉ gả con gái cho những thanh niên đạo hạnh. Rồi sau khi con yên bề gia thất, bà cũng thường đến thăm và khuyên bảo con cái những điều tốt lành. Đúng như lời dạy của bà nói với các con: “Tuân theo ý Chúa con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng đón nhận thánh giá Chúa gởi cho. Hai con hãy sống hòa hợp, an vui, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ”. Cảm ơn bà vì những lời giúp cho người nữ có thể sống hạnh phúc trong đời sống gia đình!

Vào thời cuộc nhiễu nhương của những năm bách đạo đời vua Thiệu Trị, bà đã phải chịu tù đày, tra tấn và tử đạo. Số là trong làng của bà có bốn linh mục ẩn trú âm thầm để chăm sóc con chiên. Mỗi linh mục được một gia đình che chở cho cư ngụ. Cha Thành được gia đình bà tận tình giúp đỡ. Vì có người mách với quan, nên vào sáng ngày lễ phục sinh, quân lính bao vây làng để truy bắt các cha. Đang khi bà giúp các cha thì quân lính phát hiện và bắt cả bà Đê, cha Lý và vài nữ tu.

Là người phụ nữ, dĩ nhiên khi bị bắt bà sợ hãi trước cường quyền bạo lực. Nhưng khi họ điệu bà ra đình làng, người ta thấy gương mặt bà vui tươi. Bà sẵn sàng chấp nhận thánh giá Thiên Chúa đang trao cho bà. Sau đó họ giải tất cả về Gia Định để chờ ngày xét xử. Là người nữ chân yếu tay mềm, bà vất vả từng bước tiến vào trại giam cùng với hai nữ tu.

Trong tù chúng ta xúc động nghe lại những lời khuyên của bà với các con thăm nuôi: “Con đừng khóc nữa, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu.” Bà còn nhắn nhủ cô Nụ: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vácThánh Giá Chúa Giêsu cho đến cùng.” Bà cũng nói với chồng: “Anh hãy về lo cho con, hãy trông cậy Chúa phù hộ cho anh đủ sức nuôi dưỡng chúng.”

Sau vài ngày người ta đưa bà ra trước công đường để thẩm vấn. Quan tòa bắt bà chối đạo, từ bỏ Thiên Chúa. Lời tuyên xưng đức tin của bà vang khắp cả công đường: “Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời.” Lời đanh thép ấy khiến bà chịu rất nhiều đòn roi sỉ nhục. Nhưng bà không hề nao núng vì bà được Đức Mẹ giúp sức để bà không bỏ đạo chối Chúa. Lần tra khảo khác bà cầu nguyện với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá.”

Sau ba tháng bị giam cầm, do chịu quá nhiều cực hình, bà phát bệnh và qua đời ngày 12-07-1841. “Giêsu, Maria, Giuse, con xin phó thác linh hồn và xác con trong tay Chúa” là lời sau cùng bà thưa với Chúa. Người ta an táng bà tại pháp trường Năm Mẫu. Sáu tháng sau, giáo dân đến cải tá ng về Phúc Nhạc.

Bạn biết không, ngày 19-06-1988, tại Rôma tất cả người Việt Nam hạnh phúc khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II suy tôn bà lên bậc hiển thánh. Từ đó, rất nhiều đoàn thể và người nữ Việt Nam chọn bà như mẫu gương để sống đức tin trong thời đại hôm nay. Thời nay cũng không thiếu những khó khăn, bách bớ khiến người nam, người nữ dễ nản lòng. Nhiều khi theo Đạo, tin Chúa thường gặp nhiều thách đố. Đó là thực tại của người muốn theo con đường hẹp của Thầy Giêsu. Tuy vậy, Thiên Chúa giàu lòng thương xót luôn đồng hành hướng dẫn chúng ta đến hạnh phúc vĩnh hằng.


 

Bạn có thể quan tâm

lên đầu trang